Danh tướng Nguyễn Tri Phương và những trận đầu thắng Pháp

Trước 160 năm, thành tích đáng kể của người dân Đà Nẵng trong những ngày đầu kháng chiến Pháp đã được đóng góp to lớn bởi tướng Nguyễn Tri Phương.

Nguyễn Tri Phương (1800-1873) sinh ra trong một gia đình làm nông nghiệp tại làng Đường Long (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay). Ông đã thiết lập nhiều võ công cho triều đại Nguyễn và được tôn trọng và bổ nhiệm vào một vị trí quan trọng trong thời kỳ của vua Minh Mạng. Với tài năng của mình, tướng Nguyễn Tri Phương đã phục vụ dưới triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.

Dưới ánh mắt của vua Tự Đức, Nguyễn Tri Phương là một người tận tụy, võ tướng dũng cảm và trung thực. Ông cũng đã trải qua nhiều trận đánh trong cuộc chiến chống lại quân Xiêm và “phản loạn” ở miền Nam. Ông đã được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng và đã đi qua nhiều quốc gia, bao gồm cả các vùng thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ để học hỏi kinh nghiệm chiến đấu.

Quyết định chiến đấu nhưng không hành động quá vội vàng.

Đà Nẵng bị quân Pháp – Tây Ban Nha xâm lược ngày 1/9/1858. Với lợi thế về hỏa lực và quân số, quân đội liên minh khiến triều đình Nguyễn thất bại liên tục, mất nhiều thành, đồn, nhiều tướng sĩ hy sinh. Vua Tự Đức đã giao phó nhiệm vụ cho Nguyễn Tri Phương đang làm quan ở Nam kỳ, ra làm chỉ huy trưởng chống thực dân Pháp ở Đà Nẵng.

Tượng của danh tướng Nguyễn Tri Phương được đặt tại Bảo tàng Đà Nẵng bằng hợp kim đồng.
Tượng danh tướng Nguyễn Tri Phương bằng đồng đặt tại Bảo tàng Đà Nẵng. Ảnh: Nguyễn Đông.

Đánh lấy lại ngay mà thực hiện chiến thuật phản ứng dựa vào sức dân, cẩn trọng xem xét lại tổng thể tình hình, vẽ bản đồ và kế hoạch đánh, Nguyễn Tri Phương không vội dẫn quân phản công khi đến Đà Nẵng.

Các khu vực bị tấn công, để lại các khu vườn trống rỗng, ông khuyến khích người dân không hợp tác với kẻ thù. Ông đề xuất nên giữ chặt các mặt trận còn lại để tìm cách chống trả, xây dựng xong các đồn lũy rồi từ từ tiến về phía trước, định rõ chiến đấu lâu dài với đối thủ. Trong bức thư gửi về triều đình, Nguyễn Tri Phương cho rằng quân địch chiến đấu thì có lợi, còn quân ta phòng thủ thì sẽ hơn.

Đóng chiếm vi phạm không mở cũng Tây – Pháp quân liên, động bất binh án như dường Nguyễn nhà Thấy cứu ứng, quan bề dễ để lâu vọng các lại đặt, đồn lại sửa, sự công lại làm quân cho lệnh Phương Tri Nguyễn sang sửa, luỹ đồn sang sửa chỉnh đốn việc thuận chấp đó sau đình Triều.

Cùng binh sĩ và người dân xứ Quảng, Nguyễn Tri Phương tận dụng tình hình này, ngày đêm xây dựng hệ thống phòng thủ dài từ chân núi Cẩm Khê đến đồn Liên Trì dài 3 km. Hệ thống phòng thủ bao gồm nhiều hang đá, dưới chôn chặt, trên phủ cát và các bức tường ngụy trang, cách nhau khoảng một đoạn có một đội quân chống cự, một đại pháo và khoảng 10.000 lính bảo vệ.

Viễn chiến ở Đà Nẵng, sĩ quan Savin de Larclause nói “những người An Nam đã đạt được tiến bộ lớn trong nghệ thuật chiến tranh. Chúng tôi chỉ đẩy đuổi được quân địch vài trăm thước, họ đã lui về ẩn mình trong một hệ thống phòng tuyến mới ngay trước mặt”. Trong quân đội Pháp, một viên tướng phải thừa nhận “Thành lũy của Nguyễn Tri Phương xây dựng nhanh chóng như nấm mọc, hễ chỗ nào có lối đi là có ngay chiến lũy ngăn cản”.

Tấn công bất ngờ, tiêu diệt đối thủ không thương tiếc.

Được tiêu hao năng lượng đối thủ khi đi tuần, hoặc đi săn ở nơi ít người, Nguyễn Tri Phương cho quân liên tục bao vây, tấn công cũng như tấn công bất ngờ. Quân địch tấn công vào đồn từ ba phía nhưng liên tiếp bị tấn công bất ngờ phải dừng lại hoặc rơi xuống cạm bẫy, bị bắt và tiêu diệt khá nhiều khiến tâm trạng hoang mang.

Khi Nguyễn Tri Phương có hiện diện, họ gánh chịu nhiều thiệt hại. Số lượng binh lính bị loại khỏi cuộc chiến ngày càng gia tăng, nhiều tàu chiến cũng bị thủng, nước tràn vào đe dọa chìm. Nếu trước đây liên quân Pháp – Tây dễ dàng tiến vào Đà Nẵng và hầu như không gặp phải thiệt hại.

Người dân đã tới tham quan triển lãm về cuộc tấn công của liên quân Pháp - Tây Ban Nha vào Đà Nẵng trong suốt 160 năm, diễn ra tại Hoà Vang vào ngày 29/8. Ảnh: Nguyễn Đông.
Người dân đến xem triển lãm 160 năm liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, khai mạc tại Hoà Vang hôm 29/8. Ảnh: Nguyễn Đông.

Huế thành đã bị tấn công và sau đó Đà Nẵng bị bất ngờ đánh chiếm bởi quân Tây – Pháp do chỉ huy tổng đề Genouilly de Rigault. Ông đã bị mất giấc ngủ và ăn mất sức khỏe, lương thực cũng thiếu do lòng nản chán của lính binh trong quá trình chống lại sự tấn công.

Để sắp xếp lại trang phục, ông đào hầm liên tiếp giữa đồn Điện Hải, nơi kẻ địch đang chiếm đóng, với các đồn Phúc Ninh, Thạch Giản, Hải Châu, nhằm thu hẹp phạm vi hoạt động của địch. Sau khi nhận được tin Rigault rút đi một phần lực lượng ở Đà Nẵng để tiến vào xâm chiếm Gia Định vào đầu tháng 2 năm 1859, Nguyễn Tri Phương ngay lập tức cho quân tiến lên.

Dưới lòng sông Hàn, quân An Nam sử dụng dây thép chắn ngang lòng sông Hàn để ngăn tàu chiến không thể tiến vào sâu đất liền. Quân đội triều Nguyễn liên tiếp hai ngày 6 và 7/2/1859 tiến hành tập trung toàn lực tại vùng cửa sông, đánh Toyon, đại tá hải quân, gửi tin nhắn cầu cứu cho Rigault.

Tiệc đón quân đã kết thúc, bò mua từ tỉnh Quảng Nam được đưa về cho quan lệnh cùng số tiền thưởng 100 binh sĩ còn lại. Cỏ quế và cây kiếm ngự thanh một vị tướng tên là Phương Tri Nguyễn được người vua ban cho mệnh lệnh và đã đánh đuổi kẻ thù khi chúng tấn công và xâm nhập vào triều đình trước, trong thời gian chuẩn bị cho cuộc hành trình.

Tuy nhiên, kế hoạch tấn công nhanh, chiến thắng nhanh của Tướng Rigault đã thất bại hoàn toàn. Cuộc tấn công lần thứ hai không còn dễ dàng, với tổng số khoảng 2.000 binh lính, Liên quân đã gặp thiệt hại hàng trăm người. Vì vậy, Tướng Rigault phải đợi hoàn thành nhiệm vụ và mới di chuyển đến Đà Nẵng để cứu Toyon, vì ông đã nhầm lẫn và đem quân tấn công Gia Định.

Nguyễn Tri Phương đã thành thật đến phía trước để xin nhận tội. Trận đánh tại đồn Liên Trì vào ngày 15/9/1859, do quân địch năng lực quá mạnh, quân ta bị thương vong hơn 100 người và gần 100 nhà dân bị phá hoại. Vua đồng ý giáng chức nhưng vẫn để ông tiếp tục ở lại Đà Nẵng để đền tội. Khi chiến sự ngày càng kéo dài, ưu thế chiến trường dần dần nghiêng về phía quân triều đình.

Gặp bạn sau nhé!

Trong một báo cáo, tướng Rigault de Genouilly viết: “Chính phủ đã nhầm về bản chất cuộc can thiệp ở Việt Nam… Quân đội ở đây rất can đảm, người ta nói rằng xứ này không có quân lính, sự thật thì quân đội thì”. Và “không thể không công nhận rằng một cuộc chiến tranh chống nước này còn phức tạp hơn là một cuộc chiến tranh chống vương quốc Trung Hoa”.

Đấu tranh chống Pháp đến hơi thở cuối cùng.

Được thăng chức trong lòng vua Tự Đức, Nguyễn Tri Phương trở thành tướng đầu tiên đạt thành công trong cuộc chiến chống xâm lược từ phương Tây với chiến thắng tại Đà Nẵng.

Tượng của Nguyễn Tri Phương đặt ở cửa vào của Điện Hải.
Tượng Nguyễn Tri Phương tại lối vào thành Điện Hải. Ảnh: Nguyễn Đông.

Ông tiếp tục nhận trách nhiệm quan trọng làm chỉ huy chống lại thực dân Pháp tại Gia Định vào năm 1860. Ông bị thương trong cuộc chiến này, dẫn đến việc Gia Định bị chiếm đóng và ông bị giáng chức. Sau đó, Nguyễn Tri Phương được bổ nhiệm làm Đại tá Bắc Kỳ để chống lại thực dân Pháp đang đe dọa thành phố Hà Nội.

Sáng 20/11/1873, khi quân Pháp xâm chiếm thành phố Hà Nội, Nguyễn Tri Phương chỉ huy chiến đấu tại Cửa Nam Thành. Ông bị thương, bị bắt khi quân địch chiếm được thành phố. Phía Pháp muốn chữa trị để đánh thuế nhưng không thành công. Vị tướng già đã từ chối việc băng bó vết thương, không ăn uống và nói rằng: “Nếu ta chỉ cố gắng sống lay lắt thì không bằng tự tại đời vì công việc cao cả”.

Ông qua đời sau một tháng, Vua Tự Đức quyết định xây dựng một đền thờ tại quê nhà và ra lệnh để thờ ông tại đền Trung Nghĩa (Hà Nội). Lễ tế tại các đền thờ ông được tổ chức hàng năm vào mùa xuân và mùa thu. Trong bài văn tế, vua Tự Đức đánh giá danh tướng Nguyễn Tri Phương là “người hùng”.

15 năm liên tiếp chống Pháp, làng Đường Long vẫn tồn tại ngôi đền thờ của một vị danh tướng. Tại lối vào thành Điện Hải (Đà Nẵng), tượng Nguyễn Tri Phương trang trọng hướng mặt về phía sông Hàn như một biểu tượng thể hiện sự kiên cường trong việc đối phó với sự xâm lược từ bên ngoài và bảo vệ chủ quyền của quốc gia.

Nguyễn ĐôngTư liệu được cung cấp bởi Bảo tàng Đà Nẵng.