Đồng chí Hồ Tùng Mậu với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc

Hồ Tùng Mậu được sinh ra trong một gia đình “họ có nguồn gốc từ Nghệ, những triều đại quyền quý Hoan Châu”, một vùng đất đã sinh ra rất nhiều những anh hùng xuất sắc, sẵn lòng đứng lên vì công lý, hy sinh cả thân xác và máu tươi cho Tổ quốc và đồng bào.

Cha Của Chí Đồng Cha là Kiện Bá Hồ cụ, đầu trai con của Sát đồ Án. (Phát khởi năm 1864) Pháp đang chống lại Thân Văn trào phong trong hoạt động động đang khi bị bắt bởi Kiện Bá Hồ cụ, trong khi Tây Sơn đang hoạt động và bị đày đi cuối cùng và Bảo Lao bị bắt cuối cùng và bị hại thực dân Pháp.

Đã xa lánh gia đình và đến huyện Thanh Chương và Anh Sơn giảng dạy với hy vọng tìm thấy những người cùng mục tiêu, cứu giúp đồng bào, cứu vớt Tổ quốc, Hồ Tùng Mậu chứng kiến sự đàn áp từ thực dân Pháp đối với cha mình và đồng bào khi 20 tuổi.

Sau đó, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn đã kín đáo sang Lào, cùng với Đồng chí Lê Hồng Sơn, Nguyễn Thị Tích, Ngô Chính Học và Đặng Quỳnh Anh. Năm 1919, Đồng chí sử dụng tên giả là Hồ Tùng Mậu. Sau 3 tháng ở Trại Cày ở Bản Đông, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn được ông Đặng Thúc Hứa giúp đỡ vượt biên sang Quảng Châu – Trung Quốc. Tại đây, Hồ Tùng Mậu thuê nhà của chính trị gia Hồ Học Lãm để học tiếng Trung, tiếng Anh, rồi đi học tại Trường trung học An sinh (Hàng Châu), Trường Điện tín của Công ty đường sắt Hán – Việt (Quảng Châu).

Các Đồng chí Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn… Cùng Hồ Tùng Mậu thành lập nhóm “Tâm Tâm xã” vào năm 1923. Đây là tổ chức thanh niên có tư tưởng phục quốc, hoạt động cách mạng với mục tiêu đạt lại độc lập cho Việt Nam.

Quảng Châu quay lại đã phải quay lại Đồng chí, sau khi nghe tin Phạm Hồng Thái âm mưu ám sát Toàn quyền Martial Henri Merlin, tháng 7 cùng năm. Tuy nhiên, để trở về cứu nước, tháng 3 năm 1924, Đồng chí được ông Phan Bội Châu giao cho trọng trách mang tài liệu về nước thông báo và kêu gọi thanh niên ra nước ngoài đào tạo.

Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô trở về Quảng Châu (Trung Quốc), Người gặp gỡ và trò chuyện với các thanh niên Việt Nam yêu nước trong nhóm “Tâm Tâm xã”. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận một số thanh niên này vào “Hội Cộng sản”, trong số đó có Hồ Tùng Mậu. Đồng chí đã có nhiều đóng góp trong quá trình phát triển Hội sau khi được tham gia vào “Hội Cộng sản”.

Một trong số những giảng viên thỉnh giảng của Nguyễn Ái Quốc là Hồ Tùng Mậu. “Ban Đào tạo Chính trị đặc biệt” đặt ở ngôi nhà số 13 đường Văn Minh (Quảng Châu). Sau đó, dựa trên cơ sở Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc thành lập tổ chức “Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam” và mở khóa huấn luyện chính trị cho thanh niên ở trong nước sang. Tháng 6 năm 1925.

Huệ cửa hàng sách, được sáng lập bởi Hồ Tùng Mậu vào cuối năm 1925, là nơi sinh sống và đồng thời là điểm liên lạc giữa Tổng bộ của Hội với các cơ sở trong nước để lựa chọn người đi huấn luyện tại Quảng Châu. Hồ Tùng Mậu trở về Hải Phòng thành lập “Huệ cửa hàng sách” vào cuối năm 1925.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giới thiệu Hồ Tùng Mậu vào vào tháng 3 năm 1926, do yêu cầu của cách mạng. Đồng chí đã làm việc tại Chiêu đãi sở ở Quảng Đông, tạo đầu mối giao tiếp với những người cộng sản các nước đang hoạt động ở đây. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đảm nhận vai trò này.

Đến năm 1929, Đồng chí cũng được giải phóng. Hồ Tùng Mậu đã ba lần bị bắt và chịu đủ mọi đau đớn tra tấn của nhà tù thực dân từ năm 1927 đến năm 1929, trải qua bao nhiêu gian khó.

Tiến hành phiên xét xử không có mặt đối với Hồ Tùng Mậu, thực dân Pháp đã kết án tử hình Đồng chí với tội danh thúc đẩy đưa người ra nước ngoài, khích động thành lập đảng, âm mưu phản đối. Tại đây, Hồ Tùng Mậu trở thành thành viên Chi bộ ngoại giao của An Nam Đảng Cộng sản. Cuối năm 1929, Đồng chí đến cảng Hải Phòng. Cũng trong thời gian này, tại tỉnh Nghệ An.

Năm 1930, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn đã tích cực chuẩn bị cho Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, được triệu tập bởi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại Cửư Long, Hương Cảng (Trung Quốc) vào ngày 03 tháng 02 năm 1930.

Ngày 06 tháng 6 năm 1931, Đồng chí Hồ Tùng Mậu và Đồng chí Trương Vân Lĩnh đã liên hệ với Hội Quốc tế Cứu trợ Đỏ để yêu cầu sự can thiệp, sau khi nhận được thông tin rằng Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Anh bắt giữ tại Hương Cảng. Cuối cùng, thực dân Anh đã trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc.

Đối với các Đồng chí tại Việt Nam sau khi bị tình báo Pháp bắt giữ tại Thượng Hải, sau khi bị thuộc địa Anh bắt giam từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 6 năm 1931 do hoạt động chống chính quyền, Đồng chí đã bị đuổi khỏi Hải Phòng và thông báo mật với tình báo Pháp.

Ngày 06 tháng 12 năm 1931, Đồng chí bị thực dân Pháp tuyên án tử hình tại phiên tòa ở Nghệ An, sau đó giảm án xuống thành chung thân khổ sai và giam tại nhà lao Vinh, Lao Bảo, Kon Tum, Buôn Mê Thuột… Tại trại giam Kon Tum, Hồ Tùng Mậu đã sử dụng những bài thơ để nuôi dưỡng ý chí chiến đấu, đồng thời tham gia vào việc thành lập “Hội tập hợp tù nhân”. Dưới sự tra tấn khắc nghiệt từ phía kẻ thù.

Bác Hồ (ngồi đầu tiên, từ phải sang) chụp ảnh cùng một số Ủy viên Trung ương Đảng khóa II (năm 1951) tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Hồ Tùng Mậu đứng thứ tư, từ phải sang. (Nguồn: Ảnh tư liệu) Bác Hồ (ngồi đầu tiên, từ phải sang) chụp ảnh cùng một số Ủy viên Trung ương Đảng khóa II (năm 1951) tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Hồ Tùng Mậu đứng thứ tư, từ phải sang. (Nguồn: Ảnh tư liệu)

Nhà mạng và cách cách mạng thơ văn sáng tác các trong viết nhà, kịch viết nhà thành tù nhà và cách mạng yêu nước và thơ phẩm các tác phẩm trong tù nhà. Mạng cách phẩm thơ văn sáng tác các tác phẩm trong tù nhà và cách mạng yêu và nước. Chính mạng thành nhà, viết thơ văn, kịch viết nhà sáng tác các tác phẩm trong tù nhà và cách mạng. Trường học cách mạng thay thế tù nhà, văn thơ sáng tác các tác phẩm trong tù nhà, man dã nấn tấn tra cảnh chịu, quốc đế của lao nhà nhiều qua trải phải đồng chí. Người cộng sản của tiết khí vững giữ luôn vẫn chính chịu, mạng cách người của tiết khí vững giữ luôn vẫn chính chịu.

Quyết đoán từ chối nhưng bị mời làm tư vấn chính trị, Đồng chí Đồng chí Trần Trọng Kim ngay lập tức mời Chính phủ ra làm tư vấn chính trị, được biết là Hồ Tùng Mậu cùng anh em tù chính trị trốn khỏi nhà lao Trà Khê (Phú Yên) sau ngày Nhật đảo chính Pháp (09 tháng 3 năm 1945) trở về quê nhà Quỳnh Đôi – Nghệ An tiếp tục hoạt động.

Ở quê nhà, Đồng chí tích cực thông báo, kêu gọi người dân giúp đỡ nhau vượt qua đói nghèo, tham gia Hội Cứu nước, ủng hộ cuộc cách mạng, còn giao cho con trai là Hồ Mỹ Xuyên tham gia Ủy ban Khởi nghĩa của huyện Quỳnh Lưu. Huyện Quỳnh Lưu giành được chính quyền sớm nhất toàn tỉnh Nghệ An trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 một phần nhờ điều đó.

Hồ Tùng Mậu cùng một số đồng chí khác được điều động tăng cường củng cố khi Đảng chúng ta chuẩn bị phát lệnh Tổng cuộc nổi dậy. Xứ ủy Trung Kỳ, lãnh đạo, chuẩn bị lực lượng chính trị, vũ trang tiến tới Tổng cuộc nổi dậy giành chính quyền. Điều này góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc nổi dậy giành chính ở các tỉnh lỵ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.

Hồ Tùng Mậu đã nhận được lời mời từ Chính phủ Cách mạng tạm thời của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để đến Hà Nội sau khi Cách mạng tháng Tám thành công.

Đồng chí được bổ nhiệm làm Giám đốc kiêm Chính uỷ Trường quân chính Trung bộ từ tháng 10/1945 đến năm 1947. Sau đó, Đồng chí trở thành Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Trung bộ và Ủy viên Liên khu ủy Liên khu IV. Đặc biệt, năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cá nhân phân công nhiệm vụ chuẩn bị kháng chiến cho Đồng chí và Đồng chí Lê Thiết Hùng lãnh đạo quân sự và chính trị trên vùng đất yếu hơn Chiến khu IV.

Ngày 18 tháng 12 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 138c-SL bổ nhiệm đồng chí Hồ Tùng Mậu làm Tổng Thanh tra Chính phủ và Sắc lệnh số 138b-SL thành lập Ban Thanh tra Chính phủ. Hồ Tùng Mậu, là người đứng đầu ngành, lãnh đạo thúc đẩy các hoạt động, thực hiện nhiệm vụ xem xét việc thi hành chính sách, chủ trương của Chính phủ; thanh tra các ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết; thanh tra sự khiếu nại của Nhân dân, đồng thời tổ chức, dẫn đầu nhiều đoàn công tác đi kiểm tra tình hình thực tế, làm rõ đúng, sai nhiều vụ việc nổi bật.

Năm 1951, Đồng chí được bầu vào Ban Lãnh đạo Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đồng thời, Đồng chí trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Việt – Hoa hữu nghị. Đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng phát triển mối quan hệ Việt – Trung và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp.

Rất xúc động là những dòng bài viết tự viết bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếc nuối nhân cách một người cộng sản trung thành, đồng chí đã hy sinh giữa lúc còn đầy năng lực đóng góp. Trên hành trình công tác qua thị trấn Còng (Thanh Hóa) vào buổi chiều ngày 23 tháng 7 năm 1951, đoàn cán bộ của Hồ Tùng Mậu đã bị máy bay thù địch Pháp phát hiện và truy đuổi.

“Chú Tùng Mậu à!

Tâm hồn ta rất đau khổ, linh hồn chú biết khóc không?

Đồng lòng chung khó chịu chúng ta như tay với chân, như nhiều lần đã đấu tranh ở quê hương, khi bị giam ở nhà tù đế vương, khi hoạt động ở đất nước xa lạ, hơn 25 năm. Tôi và chú là đồng đội, lại là thân thiết hơn anh em ruột về tình cảm riêng.

Về công việc tổng quát: Kể từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân thành lập, cho đến thời kỳ kháng chiến cứu nước, tôi đã đại diện cho Chính phủ và Đoàn thể, giao phó cho bạn những trách nhiệm nặng nề. Khi đảm nhận vai trò lãnh đạo Liên khu IV, khi giữ chức Tổng thanh tra và đồng thời là Hội trưởng Hội Việt – Hoa hữu nghị, bạn đã không ngại khó khăn, luôn vui vẻ hoàn thành nhiệm vụ.

Ng ta có thể phụ thuộc và tin tưởng vào. Chú là một người biểu tượng, một người anh hùng, một người đồng đội. Chú là người gương mẫu, người dẫn dắt và người hướng dẫn. Chú là người không ngừng nỗ lực và không bao giờ từ bỏ. Chú là người hùng trong mắt chúng ta, người mang lại hy vọng và niềm tin. Chú là người mang lại sự động viên và khích lệ. Chú là người mang lại sự cảm thông và lòng chia sẻ. Chú là người mang lại sự tự tin và lòng kiên nhẫn. Chú là người mang lại sự đồng hành và sự đồng tình. Chú là người chúng ta có thể ưu tiên và tôn trọng. Chú là người chúng ta có thể học hỏi và theo chân. Chú là người chúng ta có thể ngưỡng mộ và khâm phục. Chú là người chúng ta có thể biết ơn và trân trọng.

Tôi đã mất một người anh em quan trọng, Đoàn thể đã mất một người đồng chí trung thành, Chính phủ đã mất một người cán bộ giàu kinh nghiệm, đồng bào đã mất một người lãnh đạo tận tâm. Mọi người đều đau buồn, tôi cùng chung niềm thương tiếc! Đã mất anh.

Để biểu đạt sự đóng góp của chú đối với cộng đồng, đối với đất nước, tôi rơi nước mắt, đại diện cho Chính phủ, khấu hình trước tinh thần của chú, và trao tặng chú Huân chương Hồ Chí Minh.

Gắm gọi gắm tịch gửi tịch Chủ Hồ, của Đảng, của dân nhân của tin lòng đáng luôn Mậu Tùng Hồ chí Đồng đời cuối phút đến cho “gắm thiết chí em anh” thành trở, “chân với tay” như, “khổ công cộng cam đồng phen bao” đã; cách mạng cho thảy tất sinh hy lợi danh màng không, vụ nhiệm sắc xuất thành hoàn cũng Đồng chí nào cả hoàn tác mạng cách cho năm 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cầm bị năm 31 đến có Mậu Tùng Hồ chí đồng, 1951 – 1920 động hoạt năm 31 đến 14 hơn đó, quốc đế đáo lao nhà các trong ải đày, cSau đây là đoạn văn Output đã được chỉnh sửa:Dâng dâng tặng dâng tặng Chủ Hồ, của Đảng, của nhân dân của lòng tin đáng luôn Mậu Tùng Hồ chí Đồng đời cuối phút đến cho “dâng tình yêu em anh” thành trở, “chân với tay” như, “vất vả công cộng đồng đáng quý” đã; cách mạng cho tất cả mọi người đều có lợi danh mục không, nhiệm vụ đạt thành công cũng Đồng chí nào cũng hoàn thành nhiệm vụ cách đây 14 năm, từ năm 1920 đến năm 1931, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 1931 đến năm 1945, trong khi bị nhà nước đế quốc cầm tù và bị đày ra nước ngoài, Mậu Tùng Hồ chí Đồng đã hoạt động từ năm 193